Thời chống Mỹ từng có một bác sĩ, một con người, tên là Đặng Thuỳ Trâm … Tác giả những dòng nhật ký sau đây bạn đọc sẽ đọc thuộc về một lớp người khá đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội ta từ sau 1945 - họ có mặt trong công cuộc chiến đấu chống Mỹ từ mấy năm đầu tiên, khi ở miền Nam, các cơ sở cách mạng triển khai đến tận nhiều huyện đồng bằng, và trên toàn quốc, cuộc chiến tranh dù vừa gian khổ nhưng chưa sở hữu cái không khí bức bối khắc nghiệt như từ đầu những năm 70 trở đi. Và một điều đáng nói nữa: trước đó, bọn đó thuộc lứa thanh niên đầu tiên được đào tạo theo tinh thần của những người tiến kháng chiến chống Pháp, cái tinh thần “ cuộc sống mới ”, ấp ủ từ những ngày Việt Bắc gian khổ mà hào hùng Hà Nội trước chiến tranh thanh bình, yên ả lạ thường. Bao trùm xã hội là một không khí thiêng liêng, thành kính. Ngay đối với người dân hay mọi chuyện làm ăn sinh sống chỉ có ý nghĩa là sự chuẩn bị cho ngày mai sở hữu mặt ở chiến trường. Nền kinh tế tem phiếu chưa tạo ra mấy ai khó chịu. Trong tâm trí đám học trò chúng tôi ( bản thân tôi với Thùy Trâm vốn học cùng lớp trong suốt ba năm cấp ba ở trường Chu Văn An, nên dưới đây, việc dùng chữ chúng tôi là có một lý do chính đáng ) lúc nào cũng thấm đẫm tinh thần lãng mạn của Ruồi trâu, của Pavel Korsaghin trong Thép đã cá nhân tôi thế đấy và cả của Marius cùng với Cosette trong Những người khốn khổ. Sách vở lúc ấy là đồng nghĩa với văn hoá. Thêm một điã nhạc cổ điển, với một vài bông hoa trên bàn nữa thì coi giống như mãn nguyện hoàn toàn. Có mặt trong đám đông dự mít tinh ở quảng trường Ba Đình trong một ngày lễ lớn ( trước 1965, những ngày lễ to lớn bao giờ cũng có mít tinh, đâu cả chục ngàn người ), anh bạn tôi mặt ngẩng cao dõi theo mấy cánh chim bay mãi vào những đám mây xa là điều không thể phủ nhận. Đêm giao thừa ngay khi có chiến tranh rồi thì mấy ngày Tết vẫn tiếp tục có ngừng bắn, cũng như mọi người, chúng tôi dắt xe đạp đi bộ quanh Hồ Gươm trong tiếng nhạc dập dìu của mấy bài Hà Nội Huế Sài Gòn, Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó … Và có thể phát ngôn mà không sợ ngoa là từ đấy, nhiều người đi thẳng ra chiến trường. Nhật ký tôi viết mấy năm ấy còn ghi lại được hình ảnh về những người lính ớ đánh Khe Sanh 1967: Quần áo ba lô người nào cũng tinh tươm, niềm tin sáng bừng trong mắt, mỗi sợ không đi thì lỡ mất dịp có mặt trong lễ chiến thắng. Một niềm tin tưởng như chỉ có ở tôn giáo - thứ niềm tin mang đầy cảm giác thánh thiện - chi phối hành động mọi người. Lao vào chiến tranh lúc ấy không phải chỉ là nghĩa vụ mà còn là niềm ao ước, là vinh dự mà nhiều anh em chúng tôi cảm thấy phải giành lấu bằng được. Hoàn hảo nghiệp đại học 1966, Thuỳ Trâm lại xung phong đi khá xa, vào tận Đức Phổ, Quảng Ngãi là điều không thể phủ nhận. Ở đó chị làm công việc đặc trưng cho người phụ nữ trong chiến tranh là phụ trách một bệnh viện huyện, kết hợp với từ đó tạo nên cho mình một số phận. Không phải ngẫu nhiên, hai người lính thám báo Mỹ hôm qua, trong bức thư gởi tới người mẹ của liệt sĩ vừa viết mới đây, khẳng định một cách chắc chắn như đinh đóng cột: “ Trên bất cứ đất nước nào trên thế giới, điều đó đều được gọi là anh hùng ” Họ ước muốn nói tới cái sự việc từng ám ảnh bọn đó một thời gian dài: người bác sĩ này đã đứng ra cầm súng bảo vệ cho những thương binh, cùng với đã ngã xuống tương tự một người lính vừa rời tay súng. Tuy nhiên, theo mình, trước khi để mà cái hành động dũng cảm cuốn cùng Thùy Trâm “ đóng đinh ” vào tâm trí mình, những người lính bên kia chiến tuyến thật ra đã bị chinh phục. Phải có một nhân tố nào nữa, thiết không khỏe hơn, khiến họ tự nhủ phải cứu bằng được cuốn nhật ký rồi bị hút theo chị, mải miết tìm cách giải mã những dòng chữ chị ghi và sau này còn để rất nhiều thời gian lần theo dấu vết của chị. Chỉ có toàn bộ con người Thùy Trâm mới đóng nổi vai trò đẹp đẽ đó. Gần đây, thời điểm đi đến ra với thế giới, nhiều người trong chúng ta chợt hiểu ra một sự thực: Hai chữ Việt Nam bấy lâu mới chỉ mỗi gắn với một cuộc chiến tranh. Và chúng ta còn phải phấn đấu nhiều nhằm người ta hiểu rằng việt Nam còn là một xã hội, một đất nước, một nền văn hoá là điều hiển nhiên. Có một điều đáng chú ý là ngay từ lúc ấy, trong vai trò một chiến sĩ, thuỳ trâm vừa mới tự chứng tỏ mình mình còn là một con người với nghĩa rộng rãi nhất của từ này. Một mặt, chị có ý thức về bổn phận. Thật ra, chị yêu thương mọi người. Chị đau nỗi đau của mỗi bệnh nhân đến với mình. Chị muốn trở thành một người tốt bụng. Những cách nói mà với một số bạn trẻ ngày nay tưởng chẳng khác gì là công thức ( chẳng hạn trái tim đập cùng một nhịp với nhân dân đất nước, chẳng hạn niềm yêu thương vô hạn độ ) chính là những lẽ sống đã được Thuỳ Trâm tự nguyện chấp nhận. Mặt khác, chị vẫn tiếp tục dành riêng cho mình một cuộc sống riêng tư. Chị tha thiết với thiên nhiên cây cỏ. Một phần tháng ngày của chị được dệt bằng những vui bi đát của quá khứ. Trong vào lúc thất bại trong tình cảm riêng. con người này lại còn biết tìm ra ngay từ bằng người chung quanh những yếu tố tốt đẹp, rồi lý tưởng hoá thêm lên để mà biến họ thành những biểu tượng sinh động, bù đắp cho một cuộc đống nội tâm vốn quá dồi dào, quá nồng nhiệt. Sở hữu một quy ước những ai ở vào lứa tuổi chúng ta đều biết và tự nguyện ghi nhớ, tự nguyện tuân theo, đó là không nên nói nhiều đến cô đơn cùng nỗi sầu muộn. Sự phức tạp của tình cảm thêm lần nữa càng là điều cấm kỵ. Cái gì cũng phải rành rẽ. Đơn giản. Rõ ràng - cái kiểu rõ ràng thô thiển một chiều. Về phần mình mặc dù là con người hết lòng tin vào lý tưởng, song Thuỳ Trâm không bị những luật lệ không ghi thành văn bản ấy ràng buộc. Với sự nhạy cảm của một trí thức, chị lắng nghe trong mình mọi băn khoăn xao động. Chị không xa lạ với những phân vân khó xử. Trong nhật ký, người nữ bác sĩ ghi ra gần hết tất cả những cung bậc tình cảm mà ai người ở vào địa vị ấy đều trải qua, và tồn tại cảm tưởng chỉ tiến hành như vậy mới tìm được sự cân bằng cần thiết. Tuy cái chết không được miêu tả nhiều trong nhật ký, nhưng trong tâm trí Thuỳ Trâm, nó luôn luôn luôn có mặt. Nó đứng thấp thoáng đằng sau các sự kiện, đồng thời cuộc đối diện với cái chết thực thi nên một phần nội dung cuộc sống, tức cũng là làm nên vẻ xinh xắn cao thượng của con người lúc đó mới 27 tuổi này. Đọc nhiều trang, nhất là nửa phần viết về sau, khi đề cập tới nhiều hy sinh mất mát, bản thân tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều tác phẩm văn học có liên quan tới cùng một chủ đề. Đây là một bài thơ mà nhà thơ Nga Aleksei Surkov trước đây đã viết trong cuộc chiến tranh chống Phát xít: Trong hầm ta ánh lửa sáng ngời Từng thanh củi bọt sùi tương tự lệ ứa Tiếng đàn dạo một điệu trầm và nhẹ Ca ngợi mắt em ca ngợi nụ cười em Anh ở đây trên tuyết gần Mạc Tư Khoa Những hàng dương đang ngọt ngào thầm thĩ Cái bản tình ca anh vừa hát ấy Bản tình ca buồn anh mong được em nghe Giữa đôi ta dù xa cách mênh mong Dù cái chết đến gần anh mấy bước Dù hiện diện cả một cánh đồng băng tuyết Trên đương dài ta vẫn đến gặp nhau Ta hát ta đàn ta dẹp yên bão táp Hạnh phúc mất ở ta dẫn nó trở về Tình yêu sưởi chiến hào thêm ấm áp Tình yêu này sáng mãi giữa tim anh. Tôi dự đoán là đã giữ những lúc Thuỳ Trâm sống cái cảm giác mà bài thơ diễn tả, dù là không biết gì về thứ đó. Hồi ở Hà Nội, chị cũng rất thích âm nhạc và thường quan âm nhạc để hình dung ra những gì thiết yếu của đời sống - sự hoà hợp, tình yêu, hạnh phúc. * * * Ngoài những Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, thơ Từ ấy của Tố Hữu, thơ Đợi anh về của Simonov, vào những ngày đọc thêm lần nữa nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm để góp phần chỉnh lý và biên tập lại thành một cuốn sách, thường trong đầu óc mình còn trở dịch chuyển trở thêm lần nữa một vài tác phẩm nước ngoài khác, đặc biệt là trường hợp Nhật ký Anne Frank. Chỗ giống nhau đầu tiên: Đây đều là những tác phẩm viết về con người đối diện với chiến tranh. Trong cuộc sống khó khăn của một người bị ép phải chui nhủi trong một nơi ẩn náu, cô thiếu nữ Do Thái mang tên Anne Frank vẫn tìm đủ không gian để thể nghiệm mọi cảm giác tạo người bình thường, và điều đó làm cô tự hào chẳng còn gì để bàn cãi. " Mình có cái can đảm sống khác thường. Cũng phải thừa nhận là mình luôn luôn cảm thấy mình sao khoẻ thế, sao tự do cùng với trẻ trung thế. " " thật lạ cho điều này: tôi chưa bao giờ rời bỏ hy vọng. Chúng hiện diện vẻ phi lý đồng thời khó thành tựu. Song mặc tất cả, cá nhân tôi vẫn bám vào chúng. Vì tôi tiếp tục tin vào lòng tốt thiên bẩm của con người. " Những dòng chữ đơn giản đó hoàn toàn có thể đặt lẫn vào nhật ký Thuỳ Trâm mà không gượng gạo. Còn một đếm nữa thực thi nên sự gần gũi giữa Thuỳ Trâm với Anne Frank, thứ đó cũng là lý do khiến bọn mình chọn cho tập ghi chép của chị cái tên đơn giản như hiện nay, đó là cái thể loại mà họ sử dụng - thể nhật ký. Trong đời sống không thiếu gì những người khi bước vào đời háo hức định ghi nhật ký để rồi nửa đường đứt gánh bỏ dở. Khi bắt tay viết chúng thường tự nhỉ mình sẽ thành thực với mình. Có biết đâu cái cá nhân tôi của chúng nghèo nàn nên đó là một sự thành thực vô nghĩa. Và họ không sao tìm đủ nghị lực duy trì nhật ký đến cùng chính là thế. Anne Frank thú nhận: “ Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những gì cảm nghĩ bằng không không lâu nữa sẽ chết ngạt mất " có thể dễ dàng nhận thấy. Phải thừa nhận rằng, “ những người nào không viết không biết được những kỳ ảo của cái đó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn bởi vì không biết vẽ; nhưng bây giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra bản thân tôi đã hiện diện thể viết ”. Thuỳ Trâm không giữ những tuyên bố hùng hồn như là vậy, mặc dù vậy quả vô cùng với chị, nhật ký đã từng trở thành một phần cuộc đời chính là thế. Trong nhật ký chị tìm ra một con người khác với một Thuỳ Trâm mọi người vẫn luôn nhận biết hằng ngày. Để chia sẻ. Để mà thú nhận. Để tìm thêm niềm tin. Và đôi khi như là hầu làm nũng với mình một chút, lối làm nũng chỉ chứng tỏ rằng vẫn nắm giữ một thế giới riêng của mình mà không ai thông cảm hết chẳng còn gì để bàn cãi. Tất cả những yếu tố đó tạo ra nên sức hấp dẫn của những trang nhật ký. Với chị, cái hấp dẫn ấy giúp chị có đủ hào hứng ghi chép một cách đều đặn. Với người đọc hôm nay, vật đó làm nên sức cuốn hút của những tâm sự, mặc dù trong hoàn cảnh đổi khác, mọi người trước đây đã nghĩ khác. Do đặc điểm riêng của chiến tranh, ngay từ những ngày ấy, bao nhiêu công sức chúng ta nhằm cả vào việc động viên nhau ra trận. Còn chính cuộc sống mỗi người trong lúc đó thì mới được ghi chép tuyệt đối ít. Ba mươi năm sau, sự “ tiêu hoá ” vẫn dừng lại còn ở trình độ cũ chính là thế. Mỗi thời điểm thốt lên về chiến thắng, ta vẫn mỗi thấu hiểu nói với nhau những lời lẽ mọi người đã từng nghe mấy chục năm trước. Tại sao? Nhìn nhận một cách khách quan, phần thì những sôi động để kiếm sống với mục đích tồn tại lúc nào cũng cuốn hút mọi người. Phần nữa cũng là bởi ta chưa có ý thức đầy đủ về lịch sử, về sự hiện diện mặt của quá khứ trong hiện tại. Công tác tổng kết về chiến tranh quá chậm, các bộ phận lịch sử chiến tranh không hoạt động tựa như đáng lẽ phải hoạt động. Mỗi người bình thường chưa được gợi ý thu thập lại còn các tài liệu đã ghi hoặc tìm tòi lại lục khi lại trong ký ức những kỷ niệm xưa để viết ra thành những hồi ký có giá trị chân thực. * * * Ngay sau khi biết rằng đây là một cuốn nhật ký viết trong chiến tranh, tồn tại thể có bạn đọc - nhất là bạn đọc trẻ - sẽ hỏi: Lại cho chúng bản thân tôi một tấm gương hầu bảo chúng tôi học theo chứ gì? Không đâu bạn ạ! Ở đây bạn trong tương lai sẽ không tìm thấy những lời khuyên nhủ mà chỉ bắt gặp một con người với một cuộc sống cụ thể của thời chiến. So với lớp thanh niên ngày nay, người thanh niên của gần bốn chục năm trước có một cách sống khác, một cách sống không lắm chiều cạnh phong phú, không tự do nhiều vẻ, nhưng lại còn trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Sự tận tụy tạo ra người của Thùy Trâm là nhân tố khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lý tưởng cũng phải kính trọng. Phải thừa nhận rằng, còn với chúng ta, tin rằng nó cũng tồn tại những hiệu ứng tương tự. Trong cuốn lịch sử văn học thế kỷ XX đang có trong tay, tôi bắt gặp một nhận xét của A. Thật ra, malraux: " điều huyền bí hơn cả không phải là chúng ta bị ném vào mớ hỗn độn vật chất cùng với hành tinh, mà là trong “ lao tù ” đó, chúng ta rút tỉa từ bản thân cá nhân mình những nhân tố con người - nó cần vừa đủ để mà cái hư không sẵn có trong chúng ta bị phủ nhận ” câu phát biểu mang trong mình vật đó nhiều triết lý, mà một trong những triết lý đó là: trong sự muôn mày muôn vẻ của thực tại, con người vẫn là mẫu số chung làm nên những giá trị vĩnh cửu. Nhật ký Đặng Thùy Trâm sở hữu cái nhân tố nhân văn đầy bí mật đó. Trong trường hợp cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong quay trở tại tìm ra những thiết tha cao đẹp cùng với cả những cay đắng bi thảm có thể có được trong kiếp người của chính mình, tức là sự hy sinh của một con người ở 27 giữ thêm một ý nghĩa chân chính. VƯƠNG TRÍ NHÀN
Đang tải bình luận...
Hãy là người đầu tiên bình luận về truyện này!
Chia sẻ ý kiến của bạn về truyện "Nhật Ký Đặng Thùy Trâm".